LUẬN VÃNG SANH


LUẬN VÃNG SANH (VÔ LƯỢNG THỌ KINH ƯU BÀ ĐỀ XÁ NGUYỆN SANH KỆ)

Tác giả: Thiên Thân Bồ Tát
Hán dịch:  Đời Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi
Việt dịch:  Pháp Sư Minh Nhẫn

Thế Tôn, con nhất tâm
Quy y tận mười phương
Vô Ngại Quang Như Lai
Nguyện sanh cõi An Lạc.
Y theo Tu Đa La
Tướng công đức chân thật
Thuyết nguyện kệ tổng trì
Cùng Phật dạy tương ứng.
Quán tướng thế giới kia
Vượt qua tam giới đạo
Cứu cánh như hư không
Rộng lớn không bờ mé.
Chánh đạo đại từ bi
Ra đời sanh thiện căn
Đầy đủ tịnh quang minh
Như gương tròn nhật nguyệt.
Chứa đầy trân bảo tánh
Diệu trang nghiêm viên mãn
Không nhiễm sáng chói lòa
Chiếu sạch khắp thế gian.
Bảo tánh công đức thảo
Mềm dịu xoay phải trái
Người chạm sanh vui mừng
Hơn Ca Chiên Lân Đà.
Bảo hoa ngàn vạn thứ
Khắp phủ ao suối chảy
Gió nhẹ thổi hoa lá
Giao tiếp sáng loạn chuyển.
Cung điện chư lầu các
Quán mười phương vô ngại
Nhiều cây ánh sáng khác
Bảo lan bao chung quanh.

Không động chúng trời người
Thanh tịnh sanh trí hải
Như núi Tu Di Vương
Thắng diệu không ai bằng.
Đấng trượng phu trời người
Cung kính cùng chiêm ngưỡng.
Quán Phật bổn nguyện lực
Độ người không bỏ qua
Khiến mau được viên mãn
Công đức lớn như biển.
Cõi An Lạc thanh tịnh
Thường chuyển pháp vô cấu
Ngày thành Phật Bồ Tát
Như Tu Di thường trụ.
Thanh tịnh sáng trang nghiêm
Một niệm cùng một lúc
Chiếu khắp hội chư Phật
Lợi ích cho chúng sanh.
Nhạc trời, rãi áo hoa
Bình đẳng cúng diệu hương
Khen công đức chư Phật
Không có tâm phân biệt.
Thế giới nào không có
Phật pháp công đức bảo
Con nguyện đến vãng sanh
Khai thị pháp như Phật.
Con làm luận thuyết kệ
Nguyện thấy Phật Di Đà
Cùng tất cả chúng sanh
Đồng sanh cõi An Lạc.

Vô lượng báu kết hợp
La võng khắp hư không
Các thứ chuông vang lên
Tuyên nói diệu pháp âm.
Mưa hoa áo trang nghiêm
Vô lượng diệu hương xông.
Trí huệ Phật sáng ngời
Phá trừ thế gian tối.
Tiếng phạm ngộ sâu xa
Mười phương nghe diệu pháp.
Chánh giác A Di Đà
Pháp Vương khéo trụ trì.
Như Lai trong tịnh hoa
Hoa Chánh Giác hóa sanh.
Ưa thích mùi Phật pháp
Món ăn Thiền Tam Muội.
Xa lìa thân tâm não
Thọ vui thường không gián
Đại thừa giới thiện căn
Giống nhị thừa chẳng sanh.
Chúng sanh muốn nguyện vui
Tất cả được thỏa mãn.
Cho nên nguyện vãng sanh
Vào cõi A Di Đà.
Vô lượng đại bảo vương
Vi diệu đài tịnh hoa.
Tướng tốt sáng một tầm
Hình sắc siêu quần sanh.
Tiếng Như Lai vi diệu
Mười phương nghe phạm âm.
Cùng đất nước gió lửa
Hư Không không phân biệt.

Vô Lượng Thọ Tu Đa La chương cú, con đã làm xong kệ tụng tổng thuyết.

Luận rằng: Nguyện kệ này nói rõ ý nghĩa gì? Là nói rõ quán sát thế giới An Lạc, được thấy A Di Đà Phật, nguyện sanh vào cõi đó. Quán như thế nào? Làm thế nào sanh tín tâm? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, tu hành thành tựu Ngũ Niệm Môn, cuối cùng được vãng sanh vào cõi An Lạc, được thấy A Di Đà Phật. Thế nào là Ngũ Niệm Môn? Một là Lễ Bái môn. Hai là Tán Thán môn. Ba là Tác Nguyện môn. Bốn là Quán Sát môn. Năm là Hồi Hướng môn.

  • Một. Lễ Bái như thế nào? Thân nghiệp lễ lạy A Di Đà Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Vì mong muốn vãng sanh vào cõi An Lạc.
  • Hai. Tán Thán như thế nào? Khẩu nghiệp tán thán. Xưng danh hiệu của Như Lai kia. Như quang minh trí tướng của Như Lai kia. Như nghĩa danh hiệu kia, vì muốn thật sự y theo tu hành được tương ưng.
  • Ba. Tác nguyện như thế nào? Tâm thường phát nguyện. Nhất tâm chuyên niệm, cuối cùng được vãng sanh vào cõi An Lạc. Vì muốn thật sự y theo tu hành Xa Ma Tha (Chỉ).
  • Bốn. Quán Sát như thế nào? Dùng trí huệ quán sát. Chánh niệm quán sát, vì muốn thật sự y theo tu hành Tỳ Bà Xá Na (Quán). Có ba thứ để quán sát. Là ba thứ nào? Một là quán sát công đức trang nghiêm của cõi Phật.  Hai là quán sát công đức trang nghiêm của đức A Di Đà Phật. Ba là quán sát công đức trang nghiêm của chư Bồ Tát.
  • Năm. Hồi Hướng như thế nào? Là không bỏ tất cả chúng sanh khổ não, tâm thường phát nguyện lấy hồi hướng làm đầu, vì vậy thành tựu tâm đại bi.  

Quán sát như thế nào công đức trang nghiêm của cõi Phật(Cực Lạc)? Công đức trang nghiêm của cõi Phật (Cực Lạc) ví như bảo tánh như ý ma ni, vì pháp tương đối tương tự. Quán sát thành tựu công đức trang nghiêm của cõi Phật (Cực Lạc). Nên biết có mười bảy thứ. Mười bảy thứ nào? Một là thành tựu công đức thanh tịnh trang nghiêm. Hai là thành tựu công đức lượng trang nghiêm. Ba là thành tựu công đức tánh trang nghiêm. Bốn là thành tựu công đức hình tướng trang nghiêm. Năm là thành tựu công đức chủng chủng trang nghiêm. Sáu là thành tựu công đức diệu sắc trang nghiêm. Bảy là thành tựu công đức xúc trang nghiêm. Tám là thành tựu công đức tam chủng trang nghiêm. Chín là thành tựu công đức vũ trang nghiêm. Mười là thành tựu công đức quang minh trang nghiêm. Mười một là thành tựu công đức diệu thanh trang nghiêm. Mười hai là thành tựu công đức chủ trang nghiêm. Mười ba là thành tựu công đức quyến thuộc trang nghiêm. Mười bốn là thành tựu công đức thọ dụng trang nghiêm. Mười lăm là thành tựu công đức vô chư nạn trang nghiêm. Mười sáu là thành tựu công đức đại nghĩa môn trang nghiêm. Mười bảy là thành tựu công đức nhất thiết sở cầu mãn túc trang nghiêm.

  • Thành tựu công đức thanh tịnh trang nghiêm. Kệ rằng: Quán tướng thế giới kia, vì vậy vượt qua tam giới đạo.
  • Thành tựu công đức lượng trang nghiêm. Kệ rằng: Cứu cánh như hư không, vì vậy rộng lớn không bờ mé.
  • Thành tựu công đức tánh trang nghiêm. Kệ rằng: Chánh đạo đại từ bi, vì vậy ra đời sanh thiện căn.
  • Thành tựu công đức hình tướng trang nghiêm. Kệ rằng: Đầy đủ tịnh quang minh, vì vậy như gương tròn nhật nguyệt.
  • Thành tựu công đức chủng chủng sự trang nghiêm. Kệ rằng: Chứa đầy trân bảo tánh, vì vậy diệu trang nghiêm viên mãn.
  • Thành tựu công đức diệu sắc trang nghiêm. Kệ rằng: Không nhiễm sáng chói lòa, vì vậy chiếu sạch khắp thế gian.
  • Thành tựu công đức xúc trang nghiêm. Kệ rằng: Bảo tánh công đức thảo, mềm dịu xoay phải trái, người chạm sanh vui mừng, vì vậy hơn Ca Chiên Lân Đà.
  • Thành tựu công đức tam chủng trang nghiêm. Nên biết, có ba thứ. Là ba thứ nào? Một là thủy. Hai là địa. Ba là hư không. Thành tựu công đức thủy trang nghiêm. Kệ rằng: Bảo hoa ngàn vạn thứ, khắp phủ ao suối chảy, gió nhẹ thổi hoa lá, vì vậy giao tiếp sáng loạn chuyển. Thành tựu công đức địa trang nghiêm. Kệ rằng: Cung điện chư lầu các, quán mười phương vô ngại, nhiều cây ánh sáng khác, vì vậy bảo lan bao chung quanh. Thành tựu công đức hư không trang nghiêm. Kệ rằng: Vô lượng báu kết hợp, la võng khắp hư không, các thứ chuông vang lên, vì vậy tuyên nói diệu pháp âm.
  • Thành tựu công đức vũ trang nghiêm. Kệ rằng: Mưa hoa áo trang nghiêm, vì vậy vô lượng diệu hương xông.
  • Thành tựu công đức quang minh trang nghiêm. Kệ rằng: Tiếng phạm ngộ sâu xa, vì vậy mười phương nghe diệu pháp.
  • Thành tựu công đức chủ trang nghiêm. Kệ rằng: Chánh giác A Di Đà, vì vậy Pháp Vương khéo trụ trì.
  • Thành tựu công đức quyến thuộc trang nghiêm. Kệ rằng: Như Lai trong tịnh hoa, vì vậy hoa Chánh Giác hóa sanh.
  • Thành tựu công đức thọ dụng trang nghiêm. Kệ rằng: Ưa thích mùi Phật pháp, vì vậy món ăn Thiền Tam Muội.
  • Thành tựu công đức vô chư nạn trang nghiêm. Kệ rằng: Xa lìa thân tâm não, vì vậy thọ vui thường vô gián.
  • Thành tựu công đức đại nghĩa môn trang nghiêm. Kệ rằng: Đại thừa giới thiện căn, chẳng có danh chê ghét, nữ nhân và thiếu căn, vì vậy giống nhị thừa chẳng sanh. Nên biết, quả báo tịnh độ, là xa lìa hai lỗi chê ghét. Một là Thể. Hai là Danh. Thể có ba thứ: Một là hàng nhị thừa. Hai là nữ nhân. Ba là người không đủ các căn. Vì vậy không có ba cái lỗi này, gọi là lìa thể chê ghét. Danh cũng có ba thứ.  Chẳng những không có ba Thể, vì vậy không nghe đến ba thứ danh nhị thừa, nữ nhân và không đủ các căn, gọi là lìa Danh chê ghét. Chỉ có một tướng bình đẳng.
  • Thành tựu công đức nhất thiết sở cầu mãn túc trang nghiêm. Kệ rằng: Chúng sanh muốn nguyện vui, vì vậy tất cả được thỏa mãn.

Sơ lược thuyết 17 thứ thành tựu công đức trang nghiêm của cõi Phật (cực lạc). Là Như Lai tự mình thị hiện lợi tha công đức. Cõi vô Lượng Thọ Phật (cực lạc) thành tựu công đức trang nghiêm, là cảnh giới diệu tướng Đệ Nhất Nghĩa Đế, cho nên, theo thứ tự đã nói 16 câu và 1 câu.

Quán sát như thế nào thành tựu công đức trang nghiêm của đức A Di Đà Phật? Quán sát thành tựu công đức trang nghiêm của Phật, nên biết, có tám thứ tướng. Tám thứ tướng nào? Một là thành tựu công đức tọa trang nghiêm. Hai là thành tựu công đức thân nghiệp trang nghiêm. Ba là thành tựu công đức khẩu nghiệp trang nghiêm. Bốn là thành tựu công đức tâm nghiệp trang nghiêm. Năm là thành tựu công đức đại chúng trang nghiêm.  Sáu là thành tựu công đức thượng thủ trang nghiêm. Bảy là thành tựu công đức chủ trang nghiêm. Tám là thành tựu công đức bất hư tác trụ trì trang nghiêm.

  • Thế nào thành tựu công đức tọa trang nghiêm. Kệ rằng: Vô lượng đại bảo vương, vì vậy vi diệu đài tịnh hoa.
  • Thế nào thành tựu công đức thân nghiệp trang nghiêm. Kệ rằng: Tướng tốt sáng một tầm, vì vậy hình sắc siêu quần sanh.
  • Thế nào thành tựu công đức khẩu nghiệp trang nghiêm. Kệ rằng: Tiếng Như Lai vi diệu, vì vậy mười phương nghe phạm âm.
  • Thế nào thành tựu công đức tâm nghiệp trang nghiêm. Kệ rằng: Cùng đất nước gió lửa, vì vậy Hư Không không phân biệt. Không phân biệt, vì tâm không có phân biệt.
  • Thế nào thành tựu công đức đại chúng trang nghiêm. Kệ rằng: Không động chúng trời người, vì vậy thanh tịnh sanh trí hải.
  • Thế nào thành tựu công đức thượng thủ trang nghiêm. Kệ rằng: Như núi Tu Di Vương, vì vậy thắng diệu không ai bằng.
  • Thế nào thành tựu công đức chủ trang nghiêm. Kệ rằng: Đấng trượng phu trời người, vì vậy cung kính cùng chiêm ngưỡng.
  • Thế nào thành tựu công đức bất hư tác trụ trì trang nghiêm. Kệ rằng: Quán Phật bổn nguyện lực, độ người không bỏ qua, khiến được mau viên mãn, vì vậy công đức lớn như biển. Tức thấy được A Di Đà Phật, tuy chưa chứng tịnh tâm Bồ Tát. Cuối cùng cũng chứng được pháp thân bình đẳng. Cùng với tịnh tâm Bồ Tát, và địa thượng chư Bồ Tát, vì vậy cuối cùng cũng chứng được bình đẳng tịch diệt. Nên biết, sơ lược thuyết thứ tự tám câu thành tựu công đức tự lợi lợi tha trang nghiêm của Như Lai thị hiện.

Quán sát như thế nào thành tựu công đức trang nghiêm của Bồ Tát? Quán sát thành tựu công đức trang nghiêm của Bồ Tát, nên biết, quán sát thành tựu công đức của Bồ Tát chánh tu hành có Bốn thứ. Là bốn thứ nào? Một là ở một cõi Phật thân chẳng lây động, mà ứng hóa đủ loại thân khắp mười phương, thật sự y theo tu hành, thường làm Phật sự. Kệ rằng: Cõi An Lạc thanh tịnh, thường chuyển pháp vô cấu, ngày thành Phật Bồ Tát, vì vậy như Tu Di thường trụ. Vì giúp tất cả chúng sanh hoa nở nơi bùn nhơ. Hai là ứng hiện hóa thân, cùng một lúc không trước không sau, một tâm một niệm, phóng ánh sáng lớn. Đều có thể biến khắp mười phương thế giới, giáo hóa chúng sanh, dùng mọi phương tiện, tạo điều kiện tu hành, vì muốn giúp cho tất cả chúng sanh diệt trừ khổ não. Kệ rằng: Thanh tịnh sáng trang nghiêm, một niệm cùng một lúc, chiếu khắp hội chư Phật, vì vậy lợi ích cho chúng sanh. Ba là ở tất cả thế giới kia, khắp chiếu đại chúng hội chư Phật, khắp cúng dường quảng đại vô lượng cung kính khen ngợi công đức chư Phật Như Lai. Kệ rằng: Mưa nhạc trời áo hoa, bình đẳng cúng dường diệu hương, khen công đức chư Phật, vì vậy không có tâm phân biệt. Bốn là ở tất cả mười phương thế giới nơi nào không có tam bảo, thì đến trụ trì trang nghiêm Phật Pháp Tăng Bảo công đức đại hải, thị hiện khắp nơi khiến cho hiểu rõ thật sự y theo tu hành. Kệ rằng: Thế giới nào không có, Phật pháp công đức bảo, con nguyện đến vãng sanh, vì vậy khai thị pháp như Phật.

Nói lại phần trên quán sát thành tựu công đức trang nghiêm của cõi A Di Đà Phật. Thành tựu công đức trang nghiêm của A Di Đà Phật. Nên biết, ba thứ này thành tựu nguyện tâm trang nghiêm. Vì vậy sơ lược thuyết nhập gôm vào một câu pháp. Một câu pháp, tức là Thanh Tịnh. Câu Thanh Tịnh này, là pháp thân vô vi trí huệ chân thật. Nên biết, câu Thanh Tịnh này có hai thứ. Là hai thứ nào? Một là khí thế gian Thanh Tịnh. Hai là chúng sanh thế gian Thanh Tịnh. Khí thế gian Thanh Tịnh, như phần trên đã nói 17 thứ thành tựu công đức trang nghiêm của cõi Phật, thì gọi là khí thế gian thanh thịnh. Chúng sanh thế gian thanh tịnh, như phần trên đã nói 8 thứ thành tựu công đức trang nghiêm của Phật, và 4 thứ thành tựu công đức trang nghiêm của Bồ Tát, thì gọi là chúng sanh thế gian thanh tịnh. Nên biết, một câu pháp này, nhiếp cả hai nghĩa Thanh Tịnh.

Hành Bồ Tát đạo, rộng lược tu hành, Xa Ma Tha, Tỳ Bà Xá Na, thành tựu tâm nhu nhuyễn. Thật sự đã thấu rõ các pháp. Như thế đã thành tựu khéo phương tiện hồi hướng. Thế nào Bồ Tát khéo phương tiện hồi hướng? Bồ Tát khéo phương tiện hồi hướng, là nói Lễ Bái…v.v… Năm thứ tu hành, bao gồm tất cả công đức thiện căn, chẳng cầu tự thân được an vui. Vì muốn cho tất cả chúng sanh, cùng nhau vãng sanh cõi An Lạc. Gọi là Bồ Tát thành tựu khéo biết hồi hướng, tức có thể xa lìa ba pháp trái nghịch của Bồ Đề Môn tướng. Là ba môn nào? Một là Y Trí Huệ Môn, chẳng cầu tự vui, vì vậy xa lìa tâm ta tham trước thân này. Hai là Y Từ Môn, giúp cho tất cả chúng sanh dứt khổ, vì vậy xa lìa cái tâm ta tham trước thân này. Hai là Y Từ Bi Môn, tâm thương xót tất cả chúng sanh. Vì vậy xa lìa cái tâm ưa thích cúng dường cung kính thân này. Gọi là xa lìa ba pháp trái nghịch của Bồ Đề Môn Tướng. Bồ Tát đã xa lìa ba pháp trái nghịch của Bồ Đề Môn Tướng, thì chứng được đầy đủ ba môn pháp của Tùy Thuận Bồ Đề. Là ba pháp nào? Một là Tâm Thanh Tịnh không nhiểm, vì không tự cầu thân này an vui. Hai là An Tâm Thanh Tịnh, vì muốn tất cả chúng sanh dứt khổ. Ba là Lạc Tâm Thanh Tịnh, vì vậy nhiếp thu tất cả chúng sanh đều vãng sanh vào cõi An Lạc. Cho nên, gọi là đầy đủ ba môn pháp của Tùy Thuận Bồ Đề. Phần trên đã nói ba môn tướng Trí Huệ, Từ Bi, Phương Tiện, nhiếp thu Bát Nhã, nên biết, Bát Nhã nhiếp thu Phương Tiện. Phần trên đã nói xa lìa tâm ta không tham trước thân này, xa lìa cái tâm không giúp chúng sanh, xa lìa cái tâm ưa thích cúng dường cung kính thân này. Nên biết, ba pháp này, xa lìa chướng tâm Bồ Đề. Phần trên đã nói tâm Thanh Tịnh không nhiểm, An Tâm Thanh Tịnh, Lạc Tâm Thanh Tịnh. Nên biết, ba thứ tâm này, sơ lược bao gồm thành tựu chân tâm thù thắng diệu lạc. Tâm Trí Huệ của Bồ Tát là như vậy, nên biết, Tâm Phương Tiện, Tâm Vô Chướng, Tâm Thắng Chân, có thể vãng sanh vào cõi Phật thanh tịnh. Gọi là Tùy Thuận Ngũ Chủng Pháp Môn của Bồ Tát Ma Ha Tát, sự tu hành tùy ý tự tại thành tựu. Như phần trên đã nói Thân Nghiệp, Khẩu Nghiệp, Ý Nghiệp, Trí Nghiệp, Phương Tiện Trí Nghiệp, gọi là Tùy Thuận Pháp Môn.

Lại có Ngũ Chủng Môn, nên biết, thứ tự năm môn thành tựu công đức. Là năm môn nào? Một là Cận Môn. Hai là Đại Hội Chúng Môn. Ba là Trạch Môn. Bốn là Ốc Môn. Năm là Viên Lâm Du Hý Địa Môn. Năm môn này, bốn môn đầu là Nhập công đức thành tựu. Môn thứ năm, là Xuất công đức thành tựu. Nhập môn thứ nhất, là lễ bái A Di Đà Phật, vì muốn sanh vào cõi An Lạc, thì sẽ được sanh vào thế giới An Lạc. Gọi là Nhập môn thứ nhất. Nhập môn thứ hai, là tán thán A Di Đà Phật, tùy thuận danh nghĩa xưng danh hiệu Như Lai, vì tu hành y theo quang minh trí tướng của Như Lai, được nhập vào số Đại Hội Chúng. Gọi là Nhập môn thứ hai. Nhập môn thứ ba, là nhất tâm chuyên niệm phát nguyện vãng sanh, vì tu hành Xa Ma Tha Tịch Tịnh Tam Muội, được vào thế giới Liên Hoa Tạng. Gọi là Nhập môn thứ ba. Nhập môn thứ tư, là chuyên niệm quán sát diệu trang nghiêm của cõi A Di Đà Phật. Vì tu hành Tỳ Bà Xá Na, được sanh đến cõi Phật, thọ dụng chủng chủng pháp vi diệu lạc. Gọi là Nhập môn thứ tư. Xuất môn thứ năm, là đại từ đại bi, quán sát tất cả chúng sanh khổ não, thị hiện ứng hóa thân, trở vào vườn sanh tử, rừng phiền não, dùng thần thông du hý, đến để giáo hóa, lấy bổn nguyện lực hồi hướng. Gọi là Xuất môn thứ năm. Cho nên, bốn môn Nhập của Bồ Tát, là thành tựu hạnh tự lợi, một môn Xuất của Bồ Tát, là thành tựu hồi hướng hạnh lợi tha. Vì Bồ Tát tu hành Ngũ Chủng Môn, thì tự lợi lợi tha, mau chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Sơ lược giải nghĩa xong, Vô Lượng Thọ Tu Đa La Ưu Bà Đề Xá Nguyện sanh Kệ.


Nguồn: http://tinhtong.org/main/subTab-taiLieu-VangSanhLuan.html